Học sinh lớp 1 vất vả tronh giờ học |
- Vừa qua, độc giả VietNamNet tỏ ra bức xúc trước việc biện soạn sách Tiếng Việt lớp 1, không chỉ về những từ lựa chọn để dạy học sinh đánh vần quá xa lạ với lứa tuổi lớp 1 mà còn các câu chữ dài lê thê, câu ghép thay câu đơn từ những bài đầu, câu không hay về vần điệu. Các từ: xe chỉ, vơ cỏ, trỉa đỗ, vườn ươm, cháy đượm, bát ngát, chênh chếch, đông nghịt... được cho là những từ khó. Là chủ biên cuốn Tiếng Việt 1, bà nghĩ sao về phản ứng của độc giả?
PGS Đặng Thị Lanh: Những từ như "bát ngát", "chênh chếch" khó vì là tính từ nhưng những vẫn phải dạy. Giáo viên khi dạy những từ này phải giải thích bằng ví dụ như “cánh đồng bát ngát”, “nắng chiếu chênh chếch”. Một số vần như "ưt", "iêp", “ươp” xuất hiện rất ít. Ví dụ, ở bài vần “ưt”, ngoài từ mứt gừng, không thể chọn từ nào khác phù hợp với học sinh lớp 1 như các từ sứt răng, nứt nẻ. Không có câu ghép nào trong các bài đầu.
- Khi đưa những từ đó vào trong sách Tiếng Việt lớp 1, các nhà biên soạn có xem xét độ tuổi này các em có thể hiểu được không?
Thiết kế thống nhất các bài Học âm/ vần mới gồm 2 âm/ vần, mỗi âm/ vần được thể hiện qua 1 từ khóa, 2 từ ứng dụng. Chúng tôi đã chọn những từ dễ hiểu nhất với học sinh, nhưng không tránh khỏi một số ít từ cần có sự giải thích đơn giản của giáo viên thông qua các ví dụ cụ thể, như đã nêu trên.
- Có nghĩa bà khẳng định những từ được lựa chọn đưa vào sách không quá sức với học sinh lớp 1. Nếu có thể nói một cách ngắn gọn, bà có cho rằng cuốn sách Tiếng Việt 1 có những ưu và khuyết điểm gì?
Theo quy định tại Chương trình môn Tiếng Việt tiểu học của Bộ GD-ĐT, mục tiêu môn Tiếng Việt tiểu học, từ lớp1 đến lớp 5 là
Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (đọc, viết, nghe, nói) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy học Tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy.
Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt; về tự nhiên, xã hội và con người; về văn hoá, văn học của Việt Nam và nước ngoài.
Bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa cho học sinh.
Căn cứ mục tiêu chung của môn Tiếng Việt tiểu học, quy định về nội dung dạy học môn Tiếng Việt lớp 1, chúng tôi đã xây dựng hệ thống bài học phù hợp tâm sinh lí học sinh lớp 1, bao gồm 103 bài học vần và các tuần luyện tập tổng hợp. Trong quá trình soạn thảo sách, chúng tôi cố gắng thể hiện nhất quán một số đặc điểm như:
- Coi trọng sự hình thành và rèn luyện cả 4 kĩ năng đọc, viết, nghe, nói; nhưng chú ý hơn đến kĩ năng đọc, viết. Các sách Tiếng Việt lớp 1 trước đây chỉ chú ý đến kĩ năng đọc, viết.
- Coi trọng tính hệ thống của ngữ âm tiếng Việt. Thứ tự âm/ vần và thứ tự chữ cái xuất hiện có sự liên quan chặt chẽ. Đưa e, b, các dấu thanh vào 6 bài học đầu tiên, đến bài 7 – ê, v học sinh có thể đọc câu bé vẽ bê, và có thể phát triển lời nói tự nhiên những câu bà bế bé, mẹ bế bé,… với tranh kèm theo.
Các sách Tiếng Việt lớp 1 trước đây cũng không đưa a, b vào những bài học đầu tiên, mà đưa i, t hoặc o, c và không có các câu phù hợp với âm, chữ của bài học. Học sinh đã được làm quen thứ tự các chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Việt ở bậc học mầm non. Học sinh lớp 1 được học vần từ vần 1 âm đến vần 2 âm, rồi đến vần 3 âm.
Theo thứ tự này, một số bài dạy vần 2 âm có nguyên âm đôi như bài 35 – uôi, ươi, bài 41 – iêu, yêu, bài 42 – ưu, ươu có phần khó hơn so với các bài dạy vần 2 âm khác. Đây là hạn chế tất yếu của hệ thống chúng tôi đã chọn.
- Bà vừa so sánh với sách trước - sách mới có cải tiến trong việc dạy âm, dạy vần,...Bà có cho rằng, chính sự đổi mới này khiến nhiều ý kiến than phiền sách hiện hành nặng, nhiều bài học quá sức học sinh?
Tôi khẳng định sách Tiếng Việt lớp 1 học không khó. Ví dụ, có người cho rằng những từ ''trỉa đỗ", "vườn ươm", "cháy đượm" là khó.
Thực tế 70% học sinh lớp 1 là ở nông thôn, rất quen thuộc với những từ này. Đối với 30% học sinh ở thành phố, giáo viên sẽ dùng tranh ảnh hoặc đưa ra những ví dụ để học sinh hiểu được.
Một số giáo viên yêu cầu học sinh giải thích nghĩa của từ, tìm từ có tiếng chứa âm, vần ngoài bài, viết chính tả từ học kì 1. Những yêu cầu này không thuộc chuẩn kiến thức kĩ năng được quy định, khiến cha mẹ học sinh nghĩ rằng bài học quá sức học sinh.
Nên có 2 bộ sách
- Nhưng xuất phát điểm các cháu vào lớp 1 hầu hết chưa biết chữ. Nếu cho những từ khó như thế khiến phụ huynh hoang mang phải cho con học chữ trước khi vào lớp 1?
Trẻ em trước khi vào lớp 1 đã qua bậc học mầm non. Một số ít dù chưa qua bậc học này vẫn có thể học môn Tiếng Việt lớp 1 đạt chuẩn. Tuy nhiên, đối với học sinh dân tộc ít người tiếng Việt không phải là ngôn ngữ mẹ đẻ, việc đạt chuẩn khó khăn hơn.
- Những ý kiến cho rằng sách nặng, nhiều từ khó không vừa sức với học sinh lớp 1 đa số là ý kiến từ vùng có điều kiện...
Nếu ý kiến xuất phát từ những vùng có điều kiện thì chắc chắn do giáo viên như đã nói ở trên. Tôi đi thực tế ở nhiều thành phố giáo viên cho rằng sách này nhẹ, ở thời điểm hiện nay có thể soạn phần học vần với thời gian dạy ngắn hơn.
- Đa phần ý kiến độc giả đều cho rằng, các nhà soạn sách dường như không quan tâm đến yếu tố tâm lí lứa tuổi khi soạn cuốn Tiếng Việt 1. Vậy ý kiến của nhóm biên soạn là như thế nào?
Làm sách phải chú ý đến tâm lí học sinh chứ. Nói như thế là nhận xét gượng ép. Trước hết, khi làm sách chúng tôi phải nắm được đặc điểm tâm sinh lý học sinh. Chúng tôi cũng đọc sách về tâm lý lứa tuổi.
Theo một nghiên cứu, ở Úc trẻ bắt đầu đi học có thể nói 1 câu 7 từ và dần tăng số từ ở mỗi câu theo lứa tuổi theo lứa tuổi. Do đó, những bài đầu chúng tôi chỉ đưa những câu ngắn.
Cá nhân tôi cho rằng không nên có 1 bộ sách. Vì 1 bộ sách thì khó có thể phù hợp tất cả các vùng miền. Nên có ít nhất 2 bộ sách.
- Cảm ơn bà!
- Kiều Oanh - Hương Giang (thực hiện)
0 nhận xét:
Post a Comment